[Chuyện có thật] Chiếc đồng hồ bỏ túi


Khi tôi còn là một thằng nhóc, thức ăn thật quá thiếu thốn. Là đứa con cả, trách nhiện của tôi luôn là trông chừng bốn đứa em ăn trước mình. Chiến tranh mon men từ bờ biển, ngày càng gần chúng tôi hơn, đồng nghĩa với việc lương thực trở nên cạn kiệt. Lũ thú hoang thì bỏ đi, hoặc bị tán sát bởi các gia đình trong làng trong cơn cuồng loạn.

Cha tôi là một người đàn ông khôn ngoan và thận trọng nên chúng tôi đã đợi tới tận mùa thu để thịt hai con gà, khi ngay mà cả cỏ hay vỏ cây cũng chẳng còn dễ kiếm. Các gia đình khác biết chúng tôi có cặp gà nên cha tôi thường phải thức cả đêm để trông chúng. Ông đã giết ít nhất một thằng nhóc, từ thị trấn lân cận, người đã phát điên vì đói và cố gắng để đốt cả nhà tôi chỉ với một nhánh cây nhỏ.

Khi mà gà cũng hết và xương của chúng thì được ninh đi ninh lại tới khi không còn một chút chất nào để mẹ tôi làm súp, cha mẹ đã cho ba đứa lớn nhất trong nhà ra đồng để bắt về chút côn trùng cũng như chuột đồng có thể ăn được. Chúng tôi tuy đối nhưng không đến mức quá tệ hại cho đến khi một buổi sáng lạnh giá, chúng tôi thức dậy và không còn chút gì để ăn. Cha mẹ tôi bắt đầu thảo luận về việc không thể tránh khỏi - có lẽ cha tôi nên đến bờ biển và bán chiếc đồng hồ bỏ túi của mình cho một trong những kẻ say rượu, chính là những tên lính với lương cao. Đó là thứ duy nhất có giá trị trong nhà tôi, và là đồ cha truyền con nối.

Tôi không muốn cha đi. Tôi sợ rằng chiến tranh sẽ lan tới đây khi mà ông xa nhà, còn tôi thì lại còn quá non nớt và yếu đuối để bảo vệ mẹ cũng như những đứa em. Tôi đã van xin cha ở lại nhưng rồi ông bảo rằng nó sẽ ổn và hứa sẽ trở lại trong vòng hai tuần. Tôi đã rất sợ hãi và khi cha và mẹ ra ngoài để chuẩn bị đồ vào cái túi nhỏ của ông, tôi đã đập vỡ đồng hồ bỏ túi bằng chân và đặt nó trở lại vào trong chiếc bàn đã mục nát đến quá nửa của cha tôi.

Mẹ tôi đã khóc nhiều ngày. Cha đã làm hết sức mình để an ủi bà và rồi tôi thấy họ lột da từ đôi ủng của cha và hầm kĩ nó cho bữa tối. Tối hôm sau, mẹ tôi tìm thấy một con chuột chết và cố đun chín nó cho hết mầm bệnh với chút tuyết mới rơi ngay trước cửa. Và buổi tối kế nữa bà lấp đầy dạ dầy chúng tôi với chỗ xương chuột và thật nhiều tuyết.

Em trai Albert của tôi khiến tất cả mọi người tỉnh giấc đêm đó, nó khóc vì cơn đói của mình. Nó đòi được ăn những thứ mà chúng tôi vẫn thường đưuọc ăn khi chúng tôi vẫn còn cả khu vườn cũng như gia súc - thịt bò hầm, chả trắng, ngô mọng nước và thịt cừu tẩm gia vị. Những lời nói của nó khiến dạ dày của chúng tôi sôi lên như bị tra tấn để rồi tôi phải hét vào mặt nó là hãy câm đi khi tôi nghe thấy tiếng khóc của mẹ từ phòng bên.

Cha vuốt ve mái tóc của Albert cả giờ và sau đó quay trở vào phòng ngủ của cha mẹ và đóng cửa lại. Albert rên rỉ cho đến khi ánh sáng mỏng của bình minh chiếu qua rèm cửa sờn nát của chúng tôi. Tôi có thể nghe thấy tiếng động của cha từ phồng ông, mày mò với chiếc đồng hồ. Cơn đói dai dẳng của tôi đã chiến thắng cả nỗi sợ hãi với bọn lính, nên tôi thầm cầu nguyện rằng ông có thể sửa được nó.

Cha cặm cụi bên chiếc đồng hồ suốt ngày và thông tới tận đêm. Selia đã tìm thấy xác một con dế trên bước tường bỏ hoang của tiệm bánh mì, và khi chúng tôi đang ăn nó, cha bước ra từ phòng ngủ của mình cùng với mẹ. Nụ cười trên khuôn mặt ông là một trong những điều mà tôi đã gần như đã quên và không còn được nhìn thấy kể từ ngày em gái út chúng tôi ra đời. Cha nói với chúng tôi rằng ông đã sửa được chiếc đồng hồ của ông nội và cha cũng có nghe tin về một trại lính chỉ ở ngay gần đây. Ba ngày, ông hứa với chúng tôi, ba ngày và bố sẽ trở lại với cà rốt và thịt cừu, và những ổ bánh mì lớn đủ để mấy đứa ăn no suốt cả năm!

Chúng tôi vỗ tay trong vui sướng và chạy xung quanh cái sân đất nhỏ và bẩn thỉu, với một niềm vui sướng như đã trở nên xa lạ với chúng tôi. Cha nói rằng tất cả những gì chúng tôi cần làm là kiếm thứ gì đó đẹp đẽ để trang trí mặt bàn. Sáng hôm sau cha đã cho tất cả chúng tôi mỗi đứa một miếng cao su từ đế giày của mẹ để nhai và giao ra nhiệm vụ của chúng tôi sau khi hôn tạm biệt và hứa sẽ trở lại trước khi chúng tôi nhớ ông là ông đã đi.

Chúng tôi quả thật đã có một ngày rất vui, thu thập móng ngựa và mảnh kính vỡ. Bọn tôi treo những chiếc móng ngựa quanh bàn, cũng như những mảnh kính, hy vọng nó sẽ ánh sáng lung linh trong ánh sáng đèn. Cả lũ chỉ trở về nhà khi mặt trời lặn, hạnh phúc với công việc trong ngày và mong muốn tiếp tục nó vào ngày mai.

Ngay khi còn chưa nhìn thấy căn nhà, nhưng chúng tôi đã ngay lập tực ngửi thấy nó - hành tây, nước dùng gà, thịt cừu tẩm gia vị, thậm chí cả kẹo! Tôi chạy nhanh nhất có thể, vứt cái khăn bàn mà chúng tôi mất bao công trang trí sang bên trong sự them ăn đến điên cuồng. Tôi băng qua cánh cửa để tìm mẹ ở bếp, chuẩn bị bữa ăn cho chúng tôi trong một sự yên tĩnh. Tôi choàng tới ôm bà và hỏi liệu bố đã ở nhà chưa.

Đúng rồi, con yêu à. Bố đã may mắn gặp được một lính đánh thuê giàu có, người đã đã vui vẻ mua chiếc đồng hồ của ông nội con.

Tôi ôm bà chặt hơn và ngồi xuống bàn khi mấy đứa em tôi bắt đầu tràn vào qua cánh cửa. Chúng nhanh chóng ngồi vào chỗ của mình, đói, và vẻ chờ đợi hiện rõ trên mặt. Cha bước ra khỏi phòng ngủ và ngồi xuống ở cuối bàn trong khi mẹ bưng ra một đĩa thịt cừu hấp đầy gia vị. Bà khẽ gật đầu để chúng tôi có thể nhanh chóng với tay lấy món thịt xa xỉ, trong khi không them để ý tới mới cái đĩa.

Sau bữa tối, chúng tôi leo lên giường đi ngủ với dạ dầy căng phồng, và gần như không một từ nào thoát ra trong suốt cả bữa ăn. Chúng tôi tiếp tục được ăn no đủ vào bữa tối tiếp theo, rồi tiếp theo, và tiếp nữa. Nhưng khi thực phẩm dự trữ cạn dần, sức khỏe của mẹ cũng dần đi xuống. Bà chảy máu ngày một nhiều cho đến khi chúng tôi bắt đầu tranh nhau đến mẩu thịt cuối cùng, mặc cho bà ốm yếu và gầy còm gục bên cạnh.

Cái đêm đầu tiên mà không còn gì để ăn là đêm mà những ảo giác khiến niềm hạnh phúc ngắn ngủi mấy ngày qua trở nên khó hiểu.

Tôi nhớ rằng chỗ thịt cừu mà tôi đã đánh chén điên cuồng thực sự quá thơm và cái mùi mà tôi đã lần đầu tiên ngửi thấy từ xa đã không bao giờ được đặt lên bàn.

Tôi không thể nhớ mẹ ăn gì trong tất cả các ngày kể từ khi cha trở lại; thay vào đó bà ngồi lặng lẽ bên cạnh chúng tôi cạnh bàn, nhìn chằm chằm vào đống thịt màu xám mà bọn tôi ăn một cách điên cuồng.

Cả cha nữa, tôi không thể nhớ là mình đã từng nghe giọng ông kẻ từ buổi sáng ông rời nhà tới trại lính. Ghế ông ngồi luôn trống không, đêm này qua đêm khác, mà như trí nhớ của tôi, ông không hề ngồi vào đó – ít nhất là kể từ khi ông cắt mấy miếng da từ giầy của mẹ.

Đói khát và lo sợ, tôi không thể nào ngủ nổi cho tới tận nửa đêm. Sáng hôm sau khi mẹ bước ra khỏi phòng, tôi đã hỏi bà là cha đã đi đâu. Bà trả lời rằng ông đã đi lính và bảo chúng tôi ra rừng tước vỏ cây. Cha tôi đã không bao giờ quay trở lại.

Có lẽ lý do tôi đã không nhận ra những gì đã xảy ra hồi đó vì nó quá khủng khiếp, và tôi rất rất đói. Nhưng mẹ đã qua đời vài ngày trước và cái chết của bà đã để tôi biết sự thật. Từ những gì ít ỏi mà mẹ tôi để lại, tôi thấy một chiếc hộp nhỏ mà trong đó không có gì hơn là một chiếc đồng hồ bỏ túi nhỏ đã vỡ.

Có lẽ bà tôi muốn tôi phải nhớ rằng : niềm hy vọng tồn tại duy nhất của cả nhà đã vỡ nát dưới gót chân tôi. Ước vọng cuối cùng của cha tôi, cái ôm yêu thương trước khi bảo chúng tôi kiếm đồ trang trí cho bữa tiệc. Quá nhiều miếng thịt màu xám. Và cái mùi ôi thối bắt đầu phảng phất từ cánh cửa của phòng mẹ, và mùi ngày càng trở nên nặng hơn.

Cha tôi đã hy sinh cho gia đình của mình nhiều hơn hết thẩy. Tôi từng than thở rằng tôi không có di vật nào của ông. Không có đồ gia truyền nào để tôi có thể để lại cho con cái của mình.

Nhưng bây giờ tôi có chiếc đồng hồ bỏ túi của cha, một thứ mà tôi không thể để lại cho các con mình. Không phải vì kính đã vỡ tan. Cũng không phải vì các bánh răng bị nứt.

Tôi không thể rời xa chiếc đồng hồ vì nó chính là lời nguyền mà tôi phải chịu ... cho chiếc đồng hò méo mó, sáng bóng trong ánh sáng, nhưng không bao giờ mất đi cái mùi vị kinh tởm của miếng thịt hồi đó.

Nguồn: Rediit

0 nhận xét